- Lớp 6
- Toán học
- Vật lý
- Ngữ văn
- Sinh học
- Lịch sử
- Địa lý
- Ngoại ngữ (Tiếng Anh)
- Công nghệ
- Giáo dục công dân
- Giáo dục thể chất
- Âm nhạc
- Mỹ thuật
- Tin học
- Tiếng Pháp
- Khoa học Tự nhiên
- Nghệ thuật
- Giáo dục địa phương
- Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp
- Lịch sử-Địa lý
- Môn học tự chọn (Ngoại ngữ 2)
- Hoạt động trải nghiệm STEM
- Lớp 7
- Lớp 8
- Toán học
- Vật lý
- Hóa học
- Sinh học
- Ngữ văn
- Lịch sử và Địa lý
- Địa lý
- Tiếng Anh
- Giáo dục công dân
- Công nghệ
- Thể dục (GD thể chất)
- Nghệ thuật (Âm nhạc, Mĩ thuật)
- Mỹ thuật
- Tin học
- Tiếng Pháp
- Khoa học tự nhiên
- Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp
- ND Giáo dục địa phương
- Môn học tự chọn (Ngoại ngữ 2)
- Hoạt động trải nghiệm STEM
- Hoạt động GD NGLL
- Lớp 9
- Toán học
- Vật lý
- Hóa học
- Sinh học
- Ngữ văn
- Lịch sử và Địa lý
- Địa lý
- Tiếng Anh
- Giáo dục công dân
- Công nghệ
- Thể dục (GD thể chất)
- Nghệ thuật (Âm nhạc, Mĩ thuật)
- Mỹ thuật
- Tin học
- Khoa học tự nhiên
- Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp
- ND Giáo dục địa phương
- Môn học tự chọn (Ngoại ngữ 2)
- Hoạt động GD NGLL
- Lịch sử
- Hoạt động trải nghiệm STEM
Tác giả: Nguyễn Thị Lan
Chủ đề: Giáo dục
Loại tài liệu: Bài giảng; Giáo án; Kế hoạch lên lớp
Ngày cập nhật: 23:46 19/01/2024
Lượt xem: 1
Dung lượng: 1.955,7kB
Nguồn: Tự soạn
Mô tả: Ngày soạn: 17/01/2024 Ngày giảng: Lớp 7B1 Lớp 7B3 Tiết 19 20/01/2024 18/01/2024 Tiết 20 03/02/2024 27/01/2024 Tiết 19,20- Bài 9 THỰC HÀNH LỊCH SỬ- TÁI HIỆN LỊCH SỬ Thời gian thực hiện: 2 tiết I.Mục tiêu cần đạt: 1. Kiến thức: - Giới thiệu được các hiện vật trưng bày tại viện bảo tàng Quảng Ninh như: + Những chiếc cọc gỗ lim trong chiến thắng Bạch Đằng năm 938 + Các di chỉ khảo cổ của nền văn hóa Hạ Long + Các bảo vật quốc gia của tỉnh Quảng Ninh. 2. Năng lực - Năng lực tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực tự giải quyết vấn đề, năng lực tìm hiểu, khám phá tri thức. - Năng lực thuyết trình, giới thiệu sản phẩm học tập. - Hs khuyết tật: Tham gia các hoạt động giáo dục, các hình ảnh tại Bảo tàng Quảng Ninh (qua các kênh thông tin): giới thiệu được những chiếc cọc gỗ lim được trưng bày trong bảo tàng; các di chỉ khảo cổ của nền văn hoá Hạ Long; các Bảo vật quốc gia của tỉnh Quảng Ninh (viết bài) 3. Phẩm chất: - Thể hiện sự trân trọng quá trình lao động sáng tạo, có ý thức bảo vệ và phát huy những thành quả của con người trên vùng đất Quảng Ninh. II. Thiết bị và học liệu: - Ảnh, vi deo về viện Bảo Tàng Quảng Ninh - Tranh, ảnh các hiện vật: bãi cọc ngầm, di chỉ khảo cổ, bảo vật Quốc gia của tỉnh. - Phiếu học tập - Máy tính, máy chiếu. 1. Lập kế hoạch STT Người thực hiện Nội dung công việc Thời gian thực hiện Yêu cầu sản phẩm 1 Nguyễn Văn A 2. Phiếu thu thập thông tin 2.1. Giới thiệu về những chiếc cọc gỗ lim 2.2. Giới thiệu về các di chỉ khảo cổ của nền văn hóa Hạ Long 2.3. Giới thiệu về một số bảo vật quốc gia tỉnh Quảng Ninh 3. Tiêu chí đánh giá BẢNG ĐÁNH GIÁ SẢN PHẨM CỦA HỌC SINH Tiêu chí đánh giá Điểm tối đa Điểm của GV Điểm của nhóm khác NỘI DUNG Thông tin trình bày đầy đủ, chính xác 20 - Có sự mô tả chi tiết hiện vật/ di chỉ/ bảo vật 10 Trả lời tốt các câu hỏi thảo luận thêm 10 Nêu được ý nghĩa của việc học tập về hiện vật/di chỉ/ bảo vật ở bảo tàng. 20 Điểm 60 HÌNH THỨC Bố cục hợp lí rõ ràng, dễ theo dõi 10 Phong thái thuyết trình tự tin, cuốn hút người nghe 10 Có sự phối hợp giữa các thành viên trong nhóm 10 Thời gian thuyết trình vừa đủ 10 Điểm 40 Tổng điểm 100 XẾP LOẠI Giỏi: 80- 100 Trung bình: 50- 64 Khá 65- 79 Yếu dưới 50 III. Tiến trình dạy học: 1. Hoạt động khởi động: Mở đầu (5 phút) a, Mục tiêu: Tạo tình huống có vấn đề để HS huy động những kiến thức sẵn có vào giải quyết yêu cầu GV đưa ra. Từ đó khơi gợi sự hứng thú trong học tập cho HS. b, Nội dung: GV đưa ra câu hỏi, HS suy nghĩ và trả lời câu hỏi do GV đưa ra theo hình thức cá nhân. c, Sản phẩm: HS trả lời câu hỏi trước lớp d, Tiến trình thực hiện: B1: Giao nhiệm vụ: HS, xem và nghe vi deo ca nhạc bài hát: Dòng máu lạc Hồng https://www.youtube.com/watch?v=zVrysQeeETM ? Hãy chia sẻ cảm xúc của em với các bạn sau khi nghe bài hát trên. B2: Thực hiện nhiệm vụ: HS suy nghĩ và trình bày cá nhân B3: Báo cáo sản phẩm: - Câu trả lời của HS B4: Kết luận, nhận định: - GV dẫn dắt Dòng máu Lạc Hồng vẫn chảy suốt 4.000 năm, khi âm ỉ khi mãnh liệt nhưng luôn thôi thúc những thế hệ cháu con cống hiến sức lực, trí tuệ, máu xương để gìn giữ dải đất của quê hưong, gìn giữ nền văn hiến của dân tộc. Tự hào về lịch sử cội nguồn dân tộc, cô cùng các em đến với tiết thực hành lịch sử để hiểu rõ hơn về điều nay. 2.Hoạt động thực hành tái hiện lịch sử ? Bài học gồm mấy nội dung - HS: 3 nội dung: + Những chiếc cọc gỗ lim trong chiến thắng Bạch Đằng năm 938 + Các di chỉ khảo cổ của nền văn hóa Hạ Long + Các bảo vật quốc gia của tỉnh Quảng Ninh. Giao nhiệm vụ: Tổ 1: Nội dung 1( 3 nội dung nhỏ: những chiếc cọc trong viện bảo tàng; bãi cọc Yên Giang- Quảng Yên, bãi cọc Bạch Đằng Giang( Hải Phòng) Tổ 2: Nội dung 2 Tổ 3: Nội dung 3 Các tổ trưởng giao nhiệm vụ cho thành viên lập kế hoạch, thực hiện các hoạt động theo hướng dẫn phiếu lập kế hoạch, phiếu thông tin 2.1. Hoạt động 1: Cọc gỗ lim trong chiến thắng Bạch Đằng (40 phút) a, Mục tiêu: HS giới thiệu được cọc gỗ lim trưng bày trong viện bảo tàng b,Nội dung: GV cho cả lớp chuẩn bị ở tiết trước. Tiết này giao nhiệm vụ cho tổ 1với 3 nội dung nhỏ. Mỗi nhóm giải quyết nhiệm vụ của nhóm mình trong thời gian 3 phút. c, Sản phẩm: Các nhóm cử đại diện để thuyết trình về sản phẩm của nhóm mình. * Dự kiến sản phẩm: phần phụ lục B4: Đánh giá kết quả: GV gọi HS nhóm khác nhận xét sản phẩm của nhóm bạn. HS nhận xét, GV chốt ý. BẢNG ĐÁNH GIÁ SẢN PHẨM CỦA HỌC SINH Tiêu chí đánh giá Điểm tối đa Điểm của GV Điểm của nhóm khác NỘI DUNG Thông tin trình bày đầy đủ, chính xác 20 - Có sự mô tả chi tiết hiện vật/ di chỉ/ bảo vật 10 Trả lời tốt các câu hỏi thảo luận thêm 10 Nêu được ý nghĩa của việc học tập về hiện vật/di chỉ/ bảo vật ở bảo tàng. 20 Điểm 60 HÌNH THỨC Bố cục hợp lí rõ ràng, dễ theo dõi 10 Phong thái thuyết trình tự tin, cuốn hút người nghe 10 Có sự phối hợp giữa các thành viên trong nhóm 10 Thời gian thuyết trình vừa đủ 10 Điểm 40 Tổng điểm 100 XẾP LOẠI Giỏi: 80- 100 Trung bình: 50- 64 Khá 65- 79 Yếu dưới 50 Hoạt động của GV và HS Nội dung GV nhận xét, chốt ý TIẾT 2 2. Hoạt động 2. Giới thiệu các di chỉ khảo cổ(20’) Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ Gv yêu cầu tổ 2 chuẩn bị nhiệm vụ. Tổ trưởng giao cho các thành viên thực hiện nhiệm vụ theo hướng dẫn của phiếu thông tin theo hai nội dung -1: Quan sát và cho biết tên các di chỉ khảo cổ, năm được khai quật. - 2: Mô tả hiện vật của các di chỉ. PHIẾU THÔNG TIN GIỚI THIỆU VỀ CÁC DI CHỈ KHẢO CỔ CỦA NỀN VĂN HÓA HẠ LONG 1. Thông tin chung - Tên các di chỉ: - Năm khai quật: 2. Hình ảnh hiện vật các di chỉ 3. Mô tả hiện vật của các di chỉ4. B2: Thực hiện nhiệm vụ: HS suy nghĩ và thảo luận theo nhiệm vụ ụ được tổ trưởng phân công. GV quan sát và hỗ trợ HS khi gặp khó khăn. Khuyến khích HS thảo luận, đưa ra ý kiến đóng góp. B3: Báo cáo sản phẩm: Tổ cử đại diện báo cáo sản phẩm B4: Đánh giá kết quả: GV gọi HS nhóm khác nhận xét sản phẩm của nhóm bạn. HS nhận xét, GV chốt ý bằng cho HS chơi trò chơi: Lật mảnh ghép. 1. Giới thiệu về cọc gỗ lim - Cọc gỗ lim là chứng tích của trận chiến trên sông Bạch Đằng năm 938, 981 và 1288 - Cọc được tìm thấy ở các bãi Văn Giang, Đầm Muối- Quảng Yên, Sông Bạch Đằng( Hải Phòng) 2. Giới thiệu các di chỉ khảo cổ: - Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ Giáo viên tổ chức trò chơi “Lật mảnh ghép” cho học sinh. Có 6 câu hỏi trả lời ngắn, Học sinh lần lượt lật các mảnh ghép và trả lời câu hỏi. Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ: HS suy nghĩ và trả lời Bước 3: Báo cáo, thảo luận: + GV yêu cầu HS báo cáo kết quả. Bước 4: Kết luận, nhận định: HS phân tích, nhận xét, đánh giá kết quả HS trình bày. GV bổ sung phần phân tích nhận xét, đánh giá, kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh. Chính xác hóa các kiến thức đã hình thành cho học sinh. - Động viên khen thưởng HS kịp thời Hoạt động 3. Các bảo vật của tỉnh Quảng Ninh( 17’) a, Mục tiêu: HS nắm được một số bảo vật của tỉnh Quảng Ninh b, Nội dung: GV cho HS suy nghĩ và giải quyết nhiệm vụ theo hình thức cá nhân. c, Sản phẩm: HS trình bày sản phẩm của mình trước lớp d, Tiến trình thực hiện: Hoạt động của GV và HS Nội dung B1: Giao nhiệm vụ: GV chiếu phiếu học tập 1. Xem ảnh bảo vật và gọi tên 2 Giới thiệu về bảo vật mà em nắm rõ nhất.(Lai lịch nguồn gốc, năm tìm thấy niên đại, giá trị văn hóa lịch sử). B2: Thực hiện nhiệm vụ: HS suy nghĩ và giải quyết nhiệm vụ. B3: Báo cáo sản phẩm: Sản phẩm của HS - Dự kiến sản phẩm - a. Tên gọi- hình ảnh 3. Các bảo vật của tỉnh Quảng Ninh Bảo tàng Quảng Ninh có 9 bảo vật được trưng bày: - Thống đồng - Trống đồng - Hộp vàng - Bình gốm Đầu Rằm - Mâm bồng - Bình gốm hoa nâu Kinnari - Bình gốm hoa sen - Tượng phật hoàng: Trần Nhân Tông - Tháp Huệ Quang. Bảo vật Tên gọi 1. Hộp vàng Ngọa Vân Thống đồng 1. 2.Bình gốm Đầu Rằm 2. 3. Thống đồng 3 4. Trống Đồng 4. 5.Mâm Bồng 5. 6 Bình gốm hoa nâu Kinari 6 7. Bình gốm hoa sen 7. 8. Tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông 8. 9. Tháp Huệ Quang 9. b. Mô tả bảo vật Gv có thể bổ sung thêm B4: Đánh giá sản phẩm: HS nhận xét câu trả lời của bạn, GV chốt kiến thức. Tiêu chí đánh giá Điểm tối đa Điểm của GV Điểm của nhóm khác NỘI DUNG Thông tin trình bày đầy đủ, chính xác 20 - Có sự mô tả chi tiết hiện vật/ di chỉ/ bảo vật 10 Trả lời tốt các câu hỏi thảo luận thêm 10 Nêu được ý nghĩa của việc học tập về hiện vật/di chỉ/ bảo vật ở bảo tàng. 20 Điểm 60 HÌNH THỨC Bố cục hợp lí rõ ràng, dễ theo dõi 10 Phong thái thuyết trình tự tin, cuốn hút người nghe 10 Có sự phối hợp giữa các thành viên trong nhóm 10 Thời gian thuyết trình vừa đủ 10 Điểm 40 Tổng điểm 100 XẾP LOẠI Giỏi: 80- 100 Trung bình: 50- 64 Khá 65- 79 Yếu dưới 50 3. Hoạt động: Vận dụng.(5’) HS làm ở nhà nộp sản phẩm (Gv có thể lấy làm bài Kiểm tra thường xuyên) a, Mục tiêu: Vận dụng các kiến thức đã học ở phần hình thành kiến thức, HS giải quyết các nhiệm vụ có liên quan đến bài học bằng các hình thức khác nhau. Thông qua đó giúp HS nắm chắc được nội dung bài học đồng thời rèn luyện các kỹ năng cho hs. b, Nội dung: Vận dụng kiến thức đã học, tìm hiểu thêm về các di chỉ và bảo vật của Tỉnh c, Sản phẩm: Bài viết, bộ sưu tập, mô hình ... d, Tiến trình thực hiện: B1: Giao nhiệm vụ: Tổ 1:Viết bài thuyết trình có vi deo hình ảnh minh họa về các di chỉ, bảo vật của Tỉnh Tổ 2. Lập bộ sưu tập, làm mô hình về di chỉ, bảo vật của tỉnh Quảng Ninh Tổ 3: làm mô hình về một số bảo vật của Tỉnh B2: Thực hiện nhiệm vụ: HS suy nghĩ và trao đổi với bạn làm ở nhà - Thời gian 1 tuần B3: Báo cáo sản phẩm: - Nộp sản phẩm vào tiết học tuần sau - Giáo viên chấm lấy điểm khiểm tra thường xuyên - Tiêu chí chấm Tiêu chí đánh giá Điểm tối đa Điểm của GV Điểm của nhóm khác NỘI DUNG Thông tin trình bày đầy đủ, chính xác 2 - Có sự mô tả chi tiết hiện vật/ di chỉ/ bảo vật 2 Nêu được ý nghĩa của việc học tập về hiện vật/di chỉ/ bảo vật ở bảo tàng. 2 Điểm 6 HÌNH THỨC Bố cục hợp lí rõ ràng, dễ theo dõi 1 Có sự phối hợp giữa các thành viên trong nhóm 2 Nộp bài đúng thời gian 1 Điểm 4 Tổng điểm 10 XẾP LOẠI Giỏi: 8- 10 Trung bình: 5,0- 6,4 Khá 6,5- 7,9 Yếu dưới 5,0 * Hướng dẫn về nhà (3 phút) - Hoàn thành các bài tập được giao - Đọc trước bài thể thao vùng mỏ - Lập bảng thống kê các môn thể thao với thành tích tiêu biểu, vận động viên tiêu biểu của tỉnh Quảng Ninh STT MÔN THỂ THAO THÀNH TÍCH VẬN ĐỘNG VIÊN TIÊU BIỂU 1 PHỤ LỤC GIỚI THIỆU VỀ BÃI CỌC BẠCH ĐẰNG( TỔ 1) Nhóm 1. Sông Bạch Đằng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm Sông Bạch Đằng ngày nay dài hơn 20 km, bắt đầu từ Phà Rừng giữa Hải Phòng và Quảng Ninh, nơi giao nhau của sông Giá, sông Chanh và sông Đá Bạc, kéo dài đến cửa biển Nam Triệu. Sông Bạch Đằng có đặc điểm đặc trưng do sự chênh lệch của thủy triều gây nên, tạo điều kiện cho một trận địa đánh giặc. Mặt nước có độ chênh lệch khi thủy triều dâng lên và hạ xuống là khoảng 4 mét. Nhờ các đặc điểm đó, khi triều lên, nước có khả năng che lấp hết toàn bộ bãi cọc, khi nước rút, các cọc nhọn nhô lên đến 2 mét, gây cản trở tàu thuyền của địch tháo chạy ra biển và quân đội Đại Việt có cơ hội phản công. 2. Lịch sử Thời Ngô Quyền Tương truyền, tướng Kiều Công Hãn được cho là người đã đưa ra sáng kiến đầu tiên dẫn đến việc Ngô Quyền cho đóng cọc chống quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng trong trận đánh năm 938. Theo đó, ông đã khuyên Ngô Quyền rằng: “Nam Hán là một đất nước nhỏ ở vùng duyên hải, nhân lúc nhà Đường tan rã mà nổi lên chiếm một vùng đất ở phía Đông Nam, dựng thành đất nước, quân đội mạnh về thủy chiến. Nếu sang nước ta, tất chúng sẽ lấy đường biển mà tiến, qua sông Bạch Đằng vào Đại La. Ta nên bày trận đánh ngay khi chúng mới vào cửa sông Bạch Đằng”. Ông đã cho xây dựng các bãi cọc gần cửa sông để chặn đường vào của giặc ngay tại cửa biển. Để bãi cọc hoạt động, công việc tiếp theo cần làm là phải dụ được giặc vào trong trận địa này. Nguyễn Tất Tố được nhận trọng trách này, ông giỏi bơi lội và là người hiểu rõ về sông Bạch Đằng. Sách sử có chép một câu nói của ông rằng: “Vùng sông nước này tôi rất quen thuộc, biết được khi nào nước lên nước xuống. Nay muốn giặc vào bẫy, chỉ có cách là dùng thuyền nhỏ ra khiêu chiến, lựa đúng thời khắc thích hợp thì vờ thua rút chạy”. Ông cho một con thuyền nhỏ ra giữa sông khiêu chiến giặc. Tranh giả đồng tái hiện trận Bạch Đằng 938 Mọi chuyện đã diễn ra như dự đoán, ngay khi Nguyễn Tất Tố rút lui, tướng địch là Lưu Hoằng Tháo đã ngay lập tức thúc cho quân nhanh chóng đuổi theo sau. Vừa lúc địch đến cửa sông, quân Việt từ hai bên bờ lao ra tấn công quyết liệt, địch bỏ chạy. Vào đúng thời điểm này, thủy triều đang rút xuống nhanh, bãi cọc ngầm dưới sông Bạch Đằng nhô lên, đâm thủng và làm vỡ thuyền Nam Hán. Quân Việt nhân cơ hội đó đánh dồn dập và giành chiến thắng. Đại Việt sử ký toàn thư có ghi chép:”Vua Nam Hán điều quân viện ứng đóng tại biên giới không kịp trở tay. Nghe được tin Lưu Hoằng Tháo tử trận, Nghiễm kinh hoàng, thương khóc thu gom quân còn lại rút lui, từ đó dứt bỏ mộng xâm lược nước ta”. Thời Tiền Lê Dưới triều đại nhà Tiền Lê, vua Lê Đại Hành đã chỉ huy kháng chiến trên sông Bạch Đằng và một số sông khác để đối phó với thủy quân nhà Tống trong chiến tranh năm 981. Một số nghiên cứu cho thấy có thể đã có 2 trận thủy chiến sông Bạch Đằng trong năm 981. Trong đó có tranh cãi về kết quả của trận đánh đầu tiên cũng như sự tồn tại của trận đánh thứ hai. Theo Khâm định Việt sử Thông giám cương mục thì trận đầu tiên Đại Cồ Việt đã thất bại, trong khi đó, Đại cương lịch sử Việt Nam tập I thì lại chép rằng Đại Cồ Việt đã thắng và đạo thủy quân Tống bị đánh tan. Thời Trần Trong Chiến tranh Nguyên Mông–Đại Việt lần 3 năm 1288 dưới thời nhà Trần, cũng với kế đóng cọc này, quân dân Đại Việt đã thắng trên sông Bạch Đằng lần thứ ba trong lịch sử và được xem là trận thủy chiến lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, và là thắng lợi tiêu biểu nhất của Đại Việt trong ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông. Có ý kiến cho rằng, ngay từ khi nhận chức Tiết chế ở Bình Than, Trần Quốc Tuấn đã theo kế của Ngô Quyền, muốn ngăn quân địch tiến vào bằng cọc nhọn ở sông Bạch Đằng. Số cọc nhọn làm năm 1288 chỉ là số bổ sung thêm.[8] Lược đồ trận địa và các bãi cọc trong chiến thắng quân Nguyên Mông của Quân đội Đại Việt năm 1288 trên sông Bạch Đằng. Trên lược đồ chỉ ghi nhận các bãi cọc được biết đến trước năm 2010. Nhóm 2. Giới thiệu những chiếc cọc gỗ lim được trưng bày trong bảo tàng Vùng cửa sông Bạch Đằng thông sang sông Chanh, sông Rút, sông Kênh rất rộng. Vì thế, để chặn cửa mấy con sông ấy, phải có nhiều trận địa cọc, bố trí ở nhiều nơi. Kết quả khai quật đầu tiên vào năm 1958 và nhiều lần sau đó vào các năm 1969, 1976, 1984, 1988... với di tích bãi cọc Yên Giang thuộc phường Yên Giang (thị xã Quảng Yên, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh) nằm ở cửa sông Chanh, bãi cọc Đồng Vạn Muối nằm ở cửa sông Rút và bãi cọc Đồng Má Ngựa nằm ở cửa sông Kênh thuộc phường Nam Hòa (thị xã Quảng Yên, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh) hàng trăm chiếc cọc được phát hiện. Những chiếc cọc gỗ trưng bày ở Bảo tàng Quảng Ninh là kết quả cuộc khai quật năm 1976 thuộc di tích bãi cọc Yên Giang (thị xã Quảng Yên, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh). Cọc ở đây chủ yếu là gỗ lim, táu được khai thác từ cánh rừng Yên Hưng (Quảng Ninh). Cọc dài khoảng 1,5m - 3m, đường kính 20cm - 30cm, màu nâu đen, một đầu thuôn mịn để cắm xuống lòng sông, một đầu nhọn có nhiều rãnh nứt song song do nước bào mòn. Trong khi đóng ở trận địa, khoảng cách trung bình giữa các cọc từ 0,9m - 1,2m để thuyền nhỏ của ta có thể lách qua. Ngoài những cọc cắm thẳng đứng, còn có một số cọc cắm nghiêng 45 độ nhằm mục đích đánh vào thuyền giặc sát bờ. Cọc được cắm ngược chiều với hướng nước chảy để khi thuyền chiến của giặc rút lui, trôi xuôi theo dòng nước, thì sẽ bị cọc đâm ngược vào đáy thuyền. Lực xuyên sẽ mạnh hơn, dễ bị xô thẳng hơn. Nếu cọc nghiêng cùng chiều với dòng nước lực đâm của cọc sẽ yếu hơn, thậm chí có thể bị trượt trên mặt đáy thuyền. Về cách đóng cọc nhọn trên sông Bạch Đằng hiện nay có rất nhiều giả thuyết cho rằng: ông cha ta ngày xưa đã lợi dụng nước thủy triều xuống thấp nhất, dùng thuyền chở cọc đã được đẽo nhọn đến địa điểm đóng cọc. Một đầu cọc được nhấn chìm một phần xuống mặt bùn vào vị trí đã định, thân cọc được dựng theo phương thẳng đứng với mặt nước. Dùng một đoạn tre dài 40 cm - 50cm, buộc ngang thân cọc, cách mặt bùn khoảng 1m làm sao để trèo lên dễ dàng. Hai người trèo lên cọc, hai tay giữ chắc cọc, trong khi ba bốn người đứng ngập chân trong bùn đất vẫn giữ cho cọc đứng thẳng hoặc hai chiếc thuyền nan giữ cho cọc đứng yên (ở chỗ nước ngập đầu người). Hai người đứng trên cọc tre cùng lắc theo nhịp, nhấn cọc chìm sâu dần. Khi cọc không xuyên xuống được nữa, thì tháo đoạn tre ra, buộc lên cao hơn và buộc thêm một đoạn tre nữa để không chỉ hai mà bốn người cùng lắc theo nhịp bao giờ cọc chìm dưới mặt nước triều một mức nào đó theo tính toán của các bô lão mới thôi. Nếu ở những luồng nước sâu, khi cọc sắp chìm xuống mặt nước thì ta đặt nối vào một đoạn cọc khác bằng cách ốp 4 nửa đoạn cây tre dài cỡ cái đòn gánh, lấy dây mây buộc thắt lại để cho người trèo lên lắc tiếp. Cho đến khi cọc đủ đứng chắc chân trong nền đất dưới đáy sông mới cởi dây mây ra, tháo đoạn cọc gá tạm đi, lắp nón sắt vào cọc trả lại mặt sông hiền hòa trôi. Qua cách đóng cọc trên sông Bạch Đằng cho thấy, sự sáng tạo trong phương pháp đóng cọc của quân dân ta cũng như việc huy động lực lượng quân dân rất lớn dưới thời Trần để tập trung cho trận địa cọc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ ba (năm 1288) giành thắng lợi. Chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 là tổng hợp sức mạnh của toàn dân tộc, thắng lợi đó là mẫu mực của tinh thần “cả nước đồng lòng”, của sức mạnh toàn dân, của những hoàng đế anh hùng như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, của những quý tộc anh hùng như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư…, của những bình dân anh hùng như Phạm Ngũ Lão, Dã Tượng, Yết Kiêu… và của đông đảo những người lính anh hùng khắc trên cánh tay hai chữ “Sát Thát”. Đặc biệt là thiên tài quân sự Trần Quốc Tuấn, với việc áp dụng chiến thuật dùng cọc nhọn đâm thuyền địch, Trần Quốc Tuấn đã biết kết hợp linh hoạt hai yếu tố: Thứ nhất: phải dụ địch đến đúng bãi cọc diễn ra trận chiến khi thủy triều đang lên cao, bãi cọc chưa bị phát lộ; Thứ hai: phải nắm vững quy luật thủy triều theo từng giờ và tính toán đúng thời điểm để khi quân địch tới bãi cọc rồi, thủy triều mới rút, có như vậy thuyền địch mới bị mắc cạn và bị cọc đâm thủng. Sự kết hợp kì diệu hai yếu tố đó đã tạo nên một chiến công lừng lẫy. Điều đó cho thấy, Trần Quốc Tuấn đã rất thành công bởi kế sách độc đáo cũng như sáng tạo trong việc lợi dụng địa hình, địa thế tự nhiên, tính toán chính xác sự lên xuống của con nước. Chiến thắng Bạch Đằng (năm 1288) là dấu son chói lọi trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Một số cọc đã được lấy lên và những cọc còn lại được bảo tồn trong hố trưng bày tại chỗ. Tuy nhiên, những cọc Bạch Đằng ở di tích này đa số phần đầu cọc nhô lên đã bị mục gẫy, phần thân cọc vẫn cắm dưới bùn đất nhưng đây lại là chứng tích vô cùng quan trọng của trận chiến lịch sử trên dòng sông Bạch Đằng năm 1288. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của Khu di tích, ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định xếp hạng Khu di tích lịch sử Chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 là Di tích Quốc gia đặc biệt. Những chiếc cọc Bạch Đằng trưng bày ở Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh là hiện vật quý hiếm còn lại đến ngày nay, là chứng tích về truyền thống hào hùng chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Trận địa cọc không chỉ như một loại vũ khí độc đáo trong trận chiến Bạch Đằng năm 1288 mà còn thể hiện phương pháp tác chiến độc đáo, sự sáng tạo tuyệt vời trong nghệ thuật quân sự của quân dân Đại Việt dưới thời Trần. Bức tranh trận chiến Bạch Đằng, năm 1288. Cọc gỗ, dùng trong trận chiến trận chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông trên sông Bạch Đằng, năm 1288. Nhóm 3. Bãi cọc Bach Đằng Hiện nay có ít nhất ba cụm/bãi cọc đã được phát hiện ở vùng Đông Bắc Việt Nam thuộc tỉnh Quảng Ninh và 2 bãi cọc ở Hải Phòng. Bãi cọc đầu tiên được phát hiện vào năm 1953 và bãi cọc gần đây nhất là vào tháng 2 năm 2020, ở Hải Phòng. Các bãi cọc ở thị xã Quảng Yên Cọc gỗ được tìm thấy ở bãi cọc Yên Giang thuộc thị xã Quảng Yên, được mang đến lưu giữ tại Khu di tích Tràng Kênh. Có 3 bãi cọc ở thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh đã được phát hiện, bao gồm: Bãi cọc đầm Nhử, Yên Giang (phát hiện từ năm 1953 đến năm 1958), Bãi cọc đồng Vạn Muối (phát hiện năm 2005) và Bãi cọc đồng Má Ngựa (phát hiện năm 2009) Bãi cọc Yên Giang (bãi cọc đầm Nhử) Tọa độ: 20°56′07″B 106°47′01″Đ, diện tích khoảng 3.000m2 Bãi cọc này nằm trong một đầm nước giáp đê sông Chanh, gần ngã ba với sông Đá Bạch có tên là đầm Nhử nên đôi khi bãi cọc cũng được gọi là "bãi cọc đầm Nhử", nằm ở phường Yên Giang, thị xã Quảng Yên, Quảng Ninh. Bãi cọc này có diện tích khoảng 120 m². Hiện nay đã có khoảng 300 cọc đã được tìm thấy tại đây và đang nằm trong khu vực được bảo vệ rộng 7,5 ha. Khoảng năm 1953–1954, bãi cọc này dần được biết đến khi người dân địa phương ở xã Yên Giang phát hiện vài cọc gỗ lộ ra trên mặt đất ở một đầm nước nhỏ, cách ngã ba sông Chanh với sông Bạch Đằng khoảng 400 mét về phía đông. Vị trí này nằm cách trung tâm thị xã Quảng Yên 2 km về phía tây. Lúc đó, người dân do thấy có cọc gỗ lim còn tốt nên đã đào và đem về nhà sử dụng. Đã có khoảng 200 cọc được nhổ lên trong 50 hố đào. Câu chuyện sau đó dần được báo cáo lên cấp trên và Nhà nước bắt đầu quan tâm. Ngày 26 tháng 11 năm 1958, Vụ Bảo tồn bảo tàng với các chuyên gia như Hoàng Minh Giám, Đào Duy Anh, Nguyễn Lân, đã đến đây ghi nhận thông tin từ người địa phương và tiến hành khảo sát, khai quật.[12] Sau đó tiếp tục được tiến hành nhiều cuộc khảo sát và khai quật nữa vào các năm 1969, 1976, 1984 và 1988. Các cuộc nghiên cứu cho thấy các cọc ở đây đa phần được làm từ gỗ lim, thân dài từ 2,6 đến 2,8 mét và có đường kính khoảng 20 đến 30 cm. Phần đầu cọc được đẽo nhọn để cắm xuống đáy sông dài từ 0,5 đến 1 mét và khoảng cách trung bình giữa các cọc khoảng 1 mét.[13][14] Gần bãi cọc có một tấm bia được dựng lên để đánh dấu và ghi nhận khu di tích.[13] Bãi cọc đồng Vạn Muối Tọa độ: 20°55′29″B 106°47′31″Đ (không chính xác) diện tích khoảng 6.000m2 Cách bãi cọc ở Yên Giang vài kilomet là bãi cọc đồng Vạn Muối, nằm gần cửa sông Rút, phường Nam Hòa, được người dân thị xã Quảng Yên phát hiện trong khi đang đào ao. Sau lần kiểm tra vào năm 2005, các chuyên gia đã báo cáo rằng những cọc gỗ ở đây được cắm dựng đứng và một số khác cắm xiên trong vùng đồng Vạn Muối. Các cây cọc được làm từ nhiều loại gỗ, bao gồm cả thân và cành cây. Đường kính mỗi cọc khoảng từ 10 đến 30 cm, phần mũi cọc được vạt nhọn đầu, chiều dài cọc khoảng 1.5 m đến 3.0 m. Tuy nhiên, mật độ cọc ở khu vực rất dày đặc, khoảng cách chủ yếu giữa các cọc khoảng 40 đến 60 cm, một số cọc cách nhau rất gần, khoảng 10 đến 30 cm. Bãi cọc này được khai quật lần đầu vào năm 2009 và sau đó một năm thêm một cuộc khai quật lần hai. Bãi cọc có chiều rộng 100 m và chiều dài 300 m, trải thành dải như một lớp thành lũy. Bãi cọc đồng Má Ngựa Diện tích khoảng 2.100m2), cũng nằm trong phường Nam Hòa của thị xã Quảng Yên, một bãi cọc khác được gọi là bãi cọc đồng Má Ngựa đã được tiến hành khai quật trong năm 2010. Đây là bãi cọc thứ ba được tìm thấy nằm trong cụm các bãi cọc trên hệ sông Bạch Đằng xưa ở ven bờ cửa sông Kênh, nằm cách bãi cọc đồng Vạn Muối về hướng nam khoảng một kilomet.[17] Các bãi cọc này được các chuyên gia cho rằng liên quan đến trận kháng chiến trên sông Bạch Đằng vào năm 1288 do Trần Hưng Đạo lãnh đạo chống quân Nguyên Mông. Các bãi cọc ở Hải Phòng Bãi cọc Cao Quỳ Tọa độ: 21°00′48″B 106°39′19″Đ Bãi cọc Cao Quỳ vào tháng 12 năm 2019. Bãi cọc được phát hiện lần đầu vào ngày 1 tháng 10 năm 2019 bởi một người dân đang canh tác. Đến cuối tháng 11 và tháng 12 năm 2019, các chuyên gia của Viện Khảo cổ học và Bảo tàng Hải Phòng đã tiến hành khai quật một bãi cọc trên cánh đồng Cao Quỳ, thuộc xã Liên Khê, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.[19][20] Tại địa điểm này, người ta đã tìm thấy 27 chiếc cọc gỗ ở 3 hố đào trong diện tích 950 m².[21] Các cọc này đo được có đường kính khoảng từ 20 đến 56 cm, được chôn cách nhau 5 đến 7 mét.[19] Kết quả xác định niên đại bằng cacbon-14 cho thấy hai trong số các cọc gỗ có niên đạikhoảng 1270 đến 1430 năm. Bước đầu các chuyên gia của Viện Khảo cổ học dự đoán, bãi cọc ở cánh đồng Cao Quỳ có thể là một phần của trận Bạch Đằng năm 1288, để chặn đường quân Nguyên Mông không tiến vào khu vực sông Giá và trung tâm chỉ huy của Trần Hưng Đạo, buộc quân địch phải đi theo sông Đá Bạc để tiến vào sông Bạch Đằng. Theo các nhà nghiên cứu, bãi cọc gỗ mới được phát hiện này có thể làm thay đổi những hiểu biết về Trận Bạch Đằng năm 1288 của nhà Trần trước quân Nguyên Mông. Đầu tháng 1 năm 2020, các cọc gỗ ở bãi cọc Cao Quỳ đã được san lấp để bảo quản. Trước đó, bãi cọc đã được quét ba chiều, dựng lại bình đồ dành cho các nghiên cứu về sau.[26] Bãi cọc Đầm Thượng Tọa độ: 21°01′06″B 106°36′38″Đ Ngày 9 tháng 2 năm 2020, 13 cọc gỗ được phát hiện tại khu Đầm Thượng, thôn 11, xã Lại Xuân, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Các cọc này nằm trong một ao cá và được tìm thấy trong quá trình nuôi trồng của người dân địa phương. Một số cọc được cho là đã bị hư hại và nghi ngờ liên quan đến các sự kiện Bạch Đằng. Viện Khảo cổ học dự kiến sẽ tiến hành khai quật khu vực rộng khoảng 400 m² tại đây để phục vụ nghiên cứu. Công việc khai quật bãi cọc này đang được diễn ra, bắt đầu từ ngày 18 tháng 2 và dự kiến sẽ kết thúc vào ngày 31 tháng 3 năm 2020. Tính đến ngày 24 tháng 2, đã có thêm 2 cọc gỗ mới được phát hiện, nâng tổng số cọc lên 15 và 50 trên 400 m² của khu bãi cọc đã được khai quật.
Chủ đề: Giáo dục
Loại tài liệu: Bài giảng; Giáo án; Kế hoạch lên lớp
Ngày cập nhật: 23:46 19/01/2024
Lượt xem: 1
Dung lượng: 1.955,7kB
Nguồn: Tự soạn
Mô tả: Ngày soạn: 17/01/2024 Ngày giảng: Lớp 7B1 Lớp 7B3 Tiết 19 20/01/2024 18/01/2024 Tiết 20 03/02/2024 27/01/2024 Tiết 19,20- Bài 9 THỰC HÀNH LỊCH SỬ- TÁI HIỆN LỊCH SỬ Thời gian thực hiện: 2 tiết I.Mục tiêu cần đạt: 1. Kiến thức: - Giới thiệu được các hiện vật trưng bày tại viện bảo tàng Quảng Ninh như: + Những chiếc cọc gỗ lim trong chiến thắng Bạch Đằng năm 938 + Các di chỉ khảo cổ của nền văn hóa Hạ Long + Các bảo vật quốc gia của tỉnh Quảng Ninh. 2. Năng lực - Năng lực tự học, năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực tự giải quyết vấn đề, năng lực tìm hiểu, khám phá tri thức. - Năng lực thuyết trình, giới thiệu sản phẩm học tập. - Hs khuyết tật: Tham gia các hoạt động giáo dục, các hình ảnh tại Bảo tàng Quảng Ninh (qua các kênh thông tin): giới thiệu được những chiếc cọc gỗ lim được trưng bày trong bảo tàng; các di chỉ khảo cổ của nền văn hoá Hạ Long; các Bảo vật quốc gia của tỉnh Quảng Ninh (viết bài) 3. Phẩm chất: - Thể hiện sự trân trọng quá trình lao động sáng tạo, có ý thức bảo vệ và phát huy những thành quả của con người trên vùng đất Quảng Ninh. II. Thiết bị và học liệu: - Ảnh, vi deo về viện Bảo Tàng Quảng Ninh - Tranh, ảnh các hiện vật: bãi cọc ngầm, di chỉ khảo cổ, bảo vật Quốc gia của tỉnh. - Phiếu học tập - Máy tính, máy chiếu. 1. Lập kế hoạch STT Người thực hiện Nội dung công việc Thời gian thực hiện Yêu cầu sản phẩm 1 Nguyễn Văn A 2. Phiếu thu thập thông tin 2.1. Giới thiệu về những chiếc cọc gỗ lim 2.2. Giới thiệu về các di chỉ khảo cổ của nền văn hóa Hạ Long 2.3. Giới thiệu về một số bảo vật quốc gia tỉnh Quảng Ninh 3. Tiêu chí đánh giá BẢNG ĐÁNH GIÁ SẢN PHẨM CỦA HỌC SINH Tiêu chí đánh giá Điểm tối đa Điểm của GV Điểm của nhóm khác NỘI DUNG Thông tin trình bày đầy đủ, chính xác 20 - Có sự mô tả chi tiết hiện vật/ di chỉ/ bảo vật 10 Trả lời tốt các câu hỏi thảo luận thêm 10 Nêu được ý nghĩa của việc học tập về hiện vật/di chỉ/ bảo vật ở bảo tàng. 20 Điểm 60 HÌNH THỨC Bố cục hợp lí rõ ràng, dễ theo dõi 10 Phong thái thuyết trình tự tin, cuốn hút người nghe 10 Có sự phối hợp giữa các thành viên trong nhóm 10 Thời gian thuyết trình vừa đủ 10 Điểm 40 Tổng điểm 100 XẾP LOẠI Giỏi: 80- 100 Trung bình: 50- 64 Khá 65- 79 Yếu dưới 50 III. Tiến trình dạy học: 1. Hoạt động khởi động: Mở đầu (5 phút) a, Mục tiêu: Tạo tình huống có vấn đề để HS huy động những kiến thức sẵn có vào giải quyết yêu cầu GV đưa ra. Từ đó khơi gợi sự hứng thú trong học tập cho HS. b, Nội dung: GV đưa ra câu hỏi, HS suy nghĩ và trả lời câu hỏi do GV đưa ra theo hình thức cá nhân. c, Sản phẩm: HS trả lời câu hỏi trước lớp d, Tiến trình thực hiện: B1: Giao nhiệm vụ: HS, xem và nghe vi deo ca nhạc bài hát: Dòng máu lạc Hồng https://www.youtube.com/watch?v=zVrysQeeETM ? Hãy chia sẻ cảm xúc của em với các bạn sau khi nghe bài hát trên. B2: Thực hiện nhiệm vụ: HS suy nghĩ và trình bày cá nhân B3: Báo cáo sản phẩm: - Câu trả lời của HS B4: Kết luận, nhận định: - GV dẫn dắt Dòng máu Lạc Hồng vẫn chảy suốt 4.000 năm, khi âm ỉ khi mãnh liệt nhưng luôn thôi thúc những thế hệ cháu con cống hiến sức lực, trí tuệ, máu xương để gìn giữ dải đất của quê hưong, gìn giữ nền văn hiến của dân tộc. Tự hào về lịch sử cội nguồn dân tộc, cô cùng các em đến với tiết thực hành lịch sử để hiểu rõ hơn về điều nay. 2.Hoạt động thực hành tái hiện lịch sử ? Bài học gồm mấy nội dung - HS: 3 nội dung: + Những chiếc cọc gỗ lim trong chiến thắng Bạch Đằng năm 938 + Các di chỉ khảo cổ của nền văn hóa Hạ Long + Các bảo vật quốc gia của tỉnh Quảng Ninh. Giao nhiệm vụ: Tổ 1: Nội dung 1( 3 nội dung nhỏ: những chiếc cọc trong viện bảo tàng; bãi cọc Yên Giang- Quảng Yên, bãi cọc Bạch Đằng Giang( Hải Phòng) Tổ 2: Nội dung 2 Tổ 3: Nội dung 3 Các tổ trưởng giao nhiệm vụ cho thành viên lập kế hoạch, thực hiện các hoạt động theo hướng dẫn phiếu lập kế hoạch, phiếu thông tin 2.1. Hoạt động 1: Cọc gỗ lim trong chiến thắng Bạch Đằng (40 phút) a, Mục tiêu: HS giới thiệu được cọc gỗ lim trưng bày trong viện bảo tàng b,Nội dung: GV cho cả lớp chuẩn bị ở tiết trước. Tiết này giao nhiệm vụ cho tổ 1với 3 nội dung nhỏ. Mỗi nhóm giải quyết nhiệm vụ của nhóm mình trong thời gian 3 phút. c, Sản phẩm: Các nhóm cử đại diện để thuyết trình về sản phẩm của nhóm mình. * Dự kiến sản phẩm: phần phụ lục B4: Đánh giá kết quả: GV gọi HS nhóm khác nhận xét sản phẩm của nhóm bạn. HS nhận xét, GV chốt ý. BẢNG ĐÁNH GIÁ SẢN PHẨM CỦA HỌC SINH Tiêu chí đánh giá Điểm tối đa Điểm của GV Điểm của nhóm khác NỘI DUNG Thông tin trình bày đầy đủ, chính xác 20 - Có sự mô tả chi tiết hiện vật/ di chỉ/ bảo vật 10 Trả lời tốt các câu hỏi thảo luận thêm 10 Nêu được ý nghĩa của việc học tập về hiện vật/di chỉ/ bảo vật ở bảo tàng. 20 Điểm 60 HÌNH THỨC Bố cục hợp lí rõ ràng, dễ theo dõi 10 Phong thái thuyết trình tự tin, cuốn hút người nghe 10 Có sự phối hợp giữa các thành viên trong nhóm 10 Thời gian thuyết trình vừa đủ 10 Điểm 40 Tổng điểm 100 XẾP LOẠI Giỏi: 80- 100 Trung bình: 50- 64 Khá 65- 79 Yếu dưới 50 Hoạt động của GV và HS Nội dung GV nhận xét, chốt ý TIẾT 2 2. Hoạt động 2. Giới thiệu các di chỉ khảo cổ(20’) Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ Gv yêu cầu tổ 2 chuẩn bị nhiệm vụ. Tổ trưởng giao cho các thành viên thực hiện nhiệm vụ theo hướng dẫn của phiếu thông tin theo hai nội dung -1: Quan sát và cho biết tên các di chỉ khảo cổ, năm được khai quật. - 2: Mô tả hiện vật của các di chỉ. PHIẾU THÔNG TIN GIỚI THIỆU VỀ CÁC DI CHỈ KHẢO CỔ CỦA NỀN VĂN HÓA HẠ LONG 1. Thông tin chung - Tên các di chỉ: - Năm khai quật: 2. Hình ảnh hiện vật các di chỉ 3. Mô tả hiện vật của các di chỉ4. B2: Thực hiện nhiệm vụ: HS suy nghĩ và thảo luận theo nhiệm vụ ụ được tổ trưởng phân công. GV quan sát và hỗ trợ HS khi gặp khó khăn. Khuyến khích HS thảo luận, đưa ra ý kiến đóng góp. B3: Báo cáo sản phẩm: Tổ cử đại diện báo cáo sản phẩm B4: Đánh giá kết quả: GV gọi HS nhóm khác nhận xét sản phẩm của nhóm bạn. HS nhận xét, GV chốt ý bằng cho HS chơi trò chơi: Lật mảnh ghép. 1. Giới thiệu về cọc gỗ lim - Cọc gỗ lim là chứng tích của trận chiến trên sông Bạch Đằng năm 938, 981 và 1288 - Cọc được tìm thấy ở các bãi Văn Giang, Đầm Muối- Quảng Yên, Sông Bạch Đằng( Hải Phòng) 2. Giới thiệu các di chỉ khảo cổ: - Bước 1: Chuyển giao nhiệm vụ Giáo viên tổ chức trò chơi “Lật mảnh ghép” cho học sinh. Có 6 câu hỏi trả lời ngắn, Học sinh lần lượt lật các mảnh ghép và trả lời câu hỏi. Bước 2: Thực hiện nhiệm vụ: HS suy nghĩ và trả lời Bước 3: Báo cáo, thảo luận: + GV yêu cầu HS báo cáo kết quả. Bước 4: Kết luận, nhận định: HS phân tích, nhận xét, đánh giá kết quả HS trình bày. GV bổ sung phần phân tích nhận xét, đánh giá, kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh. Chính xác hóa các kiến thức đã hình thành cho học sinh. - Động viên khen thưởng HS kịp thời Hoạt động 3. Các bảo vật của tỉnh Quảng Ninh( 17’) a, Mục tiêu: HS nắm được một số bảo vật của tỉnh Quảng Ninh b, Nội dung: GV cho HS suy nghĩ và giải quyết nhiệm vụ theo hình thức cá nhân. c, Sản phẩm: HS trình bày sản phẩm của mình trước lớp d, Tiến trình thực hiện: Hoạt động của GV và HS Nội dung B1: Giao nhiệm vụ: GV chiếu phiếu học tập 1. Xem ảnh bảo vật và gọi tên 2 Giới thiệu về bảo vật mà em nắm rõ nhất.(Lai lịch nguồn gốc, năm tìm thấy niên đại, giá trị văn hóa lịch sử). B2: Thực hiện nhiệm vụ: HS suy nghĩ và giải quyết nhiệm vụ. B3: Báo cáo sản phẩm: Sản phẩm của HS - Dự kiến sản phẩm - a. Tên gọi- hình ảnh 3. Các bảo vật của tỉnh Quảng Ninh Bảo tàng Quảng Ninh có 9 bảo vật được trưng bày: - Thống đồng - Trống đồng - Hộp vàng - Bình gốm Đầu Rằm - Mâm bồng - Bình gốm hoa nâu Kinnari - Bình gốm hoa sen - Tượng phật hoàng: Trần Nhân Tông - Tháp Huệ Quang. Bảo vật Tên gọi 1. Hộp vàng Ngọa Vân Thống đồng 1. 2.Bình gốm Đầu Rằm 2. 3. Thống đồng 3 4. Trống Đồng 4. 5.Mâm Bồng 5. 6 Bình gốm hoa nâu Kinari 6 7. Bình gốm hoa sen 7. 8. Tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông 8. 9. Tháp Huệ Quang 9. b. Mô tả bảo vật Gv có thể bổ sung thêm B4: Đánh giá sản phẩm: HS nhận xét câu trả lời của bạn, GV chốt kiến thức. Tiêu chí đánh giá Điểm tối đa Điểm của GV Điểm của nhóm khác NỘI DUNG Thông tin trình bày đầy đủ, chính xác 20 - Có sự mô tả chi tiết hiện vật/ di chỉ/ bảo vật 10 Trả lời tốt các câu hỏi thảo luận thêm 10 Nêu được ý nghĩa của việc học tập về hiện vật/di chỉ/ bảo vật ở bảo tàng. 20 Điểm 60 HÌNH THỨC Bố cục hợp lí rõ ràng, dễ theo dõi 10 Phong thái thuyết trình tự tin, cuốn hút người nghe 10 Có sự phối hợp giữa các thành viên trong nhóm 10 Thời gian thuyết trình vừa đủ 10 Điểm 40 Tổng điểm 100 XẾP LOẠI Giỏi: 80- 100 Trung bình: 50- 64 Khá 65- 79 Yếu dưới 50 3. Hoạt động: Vận dụng.(5’) HS làm ở nhà nộp sản phẩm (Gv có thể lấy làm bài Kiểm tra thường xuyên) a, Mục tiêu: Vận dụng các kiến thức đã học ở phần hình thành kiến thức, HS giải quyết các nhiệm vụ có liên quan đến bài học bằng các hình thức khác nhau. Thông qua đó giúp HS nắm chắc được nội dung bài học đồng thời rèn luyện các kỹ năng cho hs. b, Nội dung: Vận dụng kiến thức đã học, tìm hiểu thêm về các di chỉ và bảo vật của Tỉnh c, Sản phẩm: Bài viết, bộ sưu tập, mô hình ... d, Tiến trình thực hiện: B1: Giao nhiệm vụ: Tổ 1:Viết bài thuyết trình có vi deo hình ảnh minh họa về các di chỉ, bảo vật của Tỉnh Tổ 2. Lập bộ sưu tập, làm mô hình về di chỉ, bảo vật của tỉnh Quảng Ninh Tổ 3: làm mô hình về một số bảo vật của Tỉnh B2: Thực hiện nhiệm vụ: HS suy nghĩ và trao đổi với bạn làm ở nhà - Thời gian 1 tuần B3: Báo cáo sản phẩm: - Nộp sản phẩm vào tiết học tuần sau - Giáo viên chấm lấy điểm khiểm tra thường xuyên - Tiêu chí chấm Tiêu chí đánh giá Điểm tối đa Điểm của GV Điểm của nhóm khác NỘI DUNG Thông tin trình bày đầy đủ, chính xác 2 - Có sự mô tả chi tiết hiện vật/ di chỉ/ bảo vật 2 Nêu được ý nghĩa của việc học tập về hiện vật/di chỉ/ bảo vật ở bảo tàng. 2 Điểm 6 HÌNH THỨC Bố cục hợp lí rõ ràng, dễ theo dõi 1 Có sự phối hợp giữa các thành viên trong nhóm 2 Nộp bài đúng thời gian 1 Điểm 4 Tổng điểm 10 XẾP LOẠI Giỏi: 8- 10 Trung bình: 5,0- 6,4 Khá 6,5- 7,9 Yếu dưới 5,0 * Hướng dẫn về nhà (3 phút) - Hoàn thành các bài tập được giao - Đọc trước bài thể thao vùng mỏ - Lập bảng thống kê các môn thể thao với thành tích tiêu biểu, vận động viên tiêu biểu của tỉnh Quảng Ninh STT MÔN THỂ THAO THÀNH TÍCH VẬN ĐỘNG VIÊN TIÊU BIỂU 1 PHỤ LỤC GIỚI THIỆU VỀ BÃI CỌC BẠCH ĐẰNG( TỔ 1) Nhóm 1. Sông Bạch Đằng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm Sông Bạch Đằng ngày nay dài hơn 20 km, bắt đầu từ Phà Rừng giữa Hải Phòng và Quảng Ninh, nơi giao nhau của sông Giá, sông Chanh và sông Đá Bạc, kéo dài đến cửa biển Nam Triệu. Sông Bạch Đằng có đặc điểm đặc trưng do sự chênh lệch của thủy triều gây nên, tạo điều kiện cho một trận địa đánh giặc. Mặt nước có độ chênh lệch khi thủy triều dâng lên và hạ xuống là khoảng 4 mét. Nhờ các đặc điểm đó, khi triều lên, nước có khả năng che lấp hết toàn bộ bãi cọc, khi nước rút, các cọc nhọn nhô lên đến 2 mét, gây cản trở tàu thuyền của địch tháo chạy ra biển và quân đội Đại Việt có cơ hội phản công. 2. Lịch sử Thời Ngô Quyền Tương truyền, tướng Kiều Công Hãn được cho là người đã đưa ra sáng kiến đầu tiên dẫn đến việc Ngô Quyền cho đóng cọc chống quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng trong trận đánh năm 938. Theo đó, ông đã khuyên Ngô Quyền rằng: “Nam Hán là một đất nước nhỏ ở vùng duyên hải, nhân lúc nhà Đường tan rã mà nổi lên chiếm một vùng đất ở phía Đông Nam, dựng thành đất nước, quân đội mạnh về thủy chiến. Nếu sang nước ta, tất chúng sẽ lấy đường biển mà tiến, qua sông Bạch Đằng vào Đại La. Ta nên bày trận đánh ngay khi chúng mới vào cửa sông Bạch Đằng”. Ông đã cho xây dựng các bãi cọc gần cửa sông để chặn đường vào của giặc ngay tại cửa biển. Để bãi cọc hoạt động, công việc tiếp theo cần làm là phải dụ được giặc vào trong trận địa này. Nguyễn Tất Tố được nhận trọng trách này, ông giỏi bơi lội và là người hiểu rõ về sông Bạch Đằng. Sách sử có chép một câu nói của ông rằng: “Vùng sông nước này tôi rất quen thuộc, biết được khi nào nước lên nước xuống. Nay muốn giặc vào bẫy, chỉ có cách là dùng thuyền nhỏ ra khiêu chiến, lựa đúng thời khắc thích hợp thì vờ thua rút chạy”. Ông cho một con thuyền nhỏ ra giữa sông khiêu chiến giặc. Tranh giả đồng tái hiện trận Bạch Đằng 938 Mọi chuyện đã diễn ra như dự đoán, ngay khi Nguyễn Tất Tố rút lui, tướng địch là Lưu Hoằng Tháo đã ngay lập tức thúc cho quân nhanh chóng đuổi theo sau. Vừa lúc địch đến cửa sông, quân Việt từ hai bên bờ lao ra tấn công quyết liệt, địch bỏ chạy. Vào đúng thời điểm này, thủy triều đang rút xuống nhanh, bãi cọc ngầm dưới sông Bạch Đằng nhô lên, đâm thủng và làm vỡ thuyền Nam Hán. Quân Việt nhân cơ hội đó đánh dồn dập và giành chiến thắng. Đại Việt sử ký toàn thư có ghi chép:”Vua Nam Hán điều quân viện ứng đóng tại biên giới không kịp trở tay. Nghe được tin Lưu Hoằng Tháo tử trận, Nghiễm kinh hoàng, thương khóc thu gom quân còn lại rút lui, từ đó dứt bỏ mộng xâm lược nước ta”. Thời Tiền Lê Dưới triều đại nhà Tiền Lê, vua Lê Đại Hành đã chỉ huy kháng chiến trên sông Bạch Đằng và một số sông khác để đối phó với thủy quân nhà Tống trong chiến tranh năm 981. Một số nghiên cứu cho thấy có thể đã có 2 trận thủy chiến sông Bạch Đằng trong năm 981. Trong đó có tranh cãi về kết quả của trận đánh đầu tiên cũng như sự tồn tại của trận đánh thứ hai. Theo Khâm định Việt sử Thông giám cương mục thì trận đầu tiên Đại Cồ Việt đã thất bại, trong khi đó, Đại cương lịch sử Việt Nam tập I thì lại chép rằng Đại Cồ Việt đã thắng và đạo thủy quân Tống bị đánh tan. Thời Trần Trong Chiến tranh Nguyên Mông–Đại Việt lần 3 năm 1288 dưới thời nhà Trần, cũng với kế đóng cọc này, quân dân Đại Việt đã thắng trên sông Bạch Đằng lần thứ ba trong lịch sử và được xem là trận thủy chiến lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, và là thắng lợi tiêu biểu nhất của Đại Việt trong ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông. Có ý kiến cho rằng, ngay từ khi nhận chức Tiết chế ở Bình Than, Trần Quốc Tuấn đã theo kế của Ngô Quyền, muốn ngăn quân địch tiến vào bằng cọc nhọn ở sông Bạch Đằng. Số cọc nhọn làm năm 1288 chỉ là số bổ sung thêm.[8] Lược đồ trận địa và các bãi cọc trong chiến thắng quân Nguyên Mông của Quân đội Đại Việt năm 1288 trên sông Bạch Đằng. Trên lược đồ chỉ ghi nhận các bãi cọc được biết đến trước năm 2010. Nhóm 2. Giới thiệu những chiếc cọc gỗ lim được trưng bày trong bảo tàng Vùng cửa sông Bạch Đằng thông sang sông Chanh, sông Rút, sông Kênh rất rộng. Vì thế, để chặn cửa mấy con sông ấy, phải có nhiều trận địa cọc, bố trí ở nhiều nơi. Kết quả khai quật đầu tiên vào năm 1958 và nhiều lần sau đó vào các năm 1969, 1976, 1984, 1988... với di tích bãi cọc Yên Giang thuộc phường Yên Giang (thị xã Quảng Yên, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh) nằm ở cửa sông Chanh, bãi cọc Đồng Vạn Muối nằm ở cửa sông Rút và bãi cọc Đồng Má Ngựa nằm ở cửa sông Kênh thuộc phường Nam Hòa (thị xã Quảng Yên, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh) hàng trăm chiếc cọc được phát hiện. Những chiếc cọc gỗ trưng bày ở Bảo tàng Quảng Ninh là kết quả cuộc khai quật năm 1976 thuộc di tích bãi cọc Yên Giang (thị xã Quảng Yên, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh). Cọc ở đây chủ yếu là gỗ lim, táu được khai thác từ cánh rừng Yên Hưng (Quảng Ninh). Cọc dài khoảng 1,5m - 3m, đường kính 20cm - 30cm, màu nâu đen, một đầu thuôn mịn để cắm xuống lòng sông, một đầu nhọn có nhiều rãnh nứt song song do nước bào mòn. Trong khi đóng ở trận địa, khoảng cách trung bình giữa các cọc từ 0,9m - 1,2m để thuyền nhỏ của ta có thể lách qua. Ngoài những cọc cắm thẳng đứng, còn có một số cọc cắm nghiêng 45 độ nhằm mục đích đánh vào thuyền giặc sát bờ. Cọc được cắm ngược chiều với hướng nước chảy để khi thuyền chiến của giặc rút lui, trôi xuôi theo dòng nước, thì sẽ bị cọc đâm ngược vào đáy thuyền. Lực xuyên sẽ mạnh hơn, dễ bị xô thẳng hơn. Nếu cọc nghiêng cùng chiều với dòng nước lực đâm của cọc sẽ yếu hơn, thậm chí có thể bị trượt trên mặt đáy thuyền. Về cách đóng cọc nhọn trên sông Bạch Đằng hiện nay có rất nhiều giả thuyết cho rằng: ông cha ta ngày xưa đã lợi dụng nước thủy triều xuống thấp nhất, dùng thuyền chở cọc đã được đẽo nhọn đến địa điểm đóng cọc. Một đầu cọc được nhấn chìm một phần xuống mặt bùn vào vị trí đã định, thân cọc được dựng theo phương thẳng đứng với mặt nước. Dùng một đoạn tre dài 40 cm - 50cm, buộc ngang thân cọc, cách mặt bùn khoảng 1m làm sao để trèo lên dễ dàng. Hai người trèo lên cọc, hai tay giữ chắc cọc, trong khi ba bốn người đứng ngập chân trong bùn đất vẫn giữ cho cọc đứng thẳng hoặc hai chiếc thuyền nan giữ cho cọc đứng yên (ở chỗ nước ngập đầu người). Hai người đứng trên cọc tre cùng lắc theo nhịp, nhấn cọc chìm sâu dần. Khi cọc không xuyên xuống được nữa, thì tháo đoạn tre ra, buộc lên cao hơn và buộc thêm một đoạn tre nữa để không chỉ hai mà bốn người cùng lắc theo nhịp bao giờ cọc chìm dưới mặt nước triều một mức nào đó theo tính toán của các bô lão mới thôi. Nếu ở những luồng nước sâu, khi cọc sắp chìm xuống mặt nước thì ta đặt nối vào một đoạn cọc khác bằng cách ốp 4 nửa đoạn cây tre dài cỡ cái đòn gánh, lấy dây mây buộc thắt lại để cho người trèo lên lắc tiếp. Cho đến khi cọc đủ đứng chắc chân trong nền đất dưới đáy sông mới cởi dây mây ra, tháo đoạn cọc gá tạm đi, lắp nón sắt vào cọc trả lại mặt sông hiền hòa trôi. Qua cách đóng cọc trên sông Bạch Đằng cho thấy, sự sáng tạo trong phương pháp đóng cọc của quân dân ta cũng như việc huy động lực lượng quân dân rất lớn dưới thời Trần để tập trung cho trận địa cọc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ ba (năm 1288) giành thắng lợi. Chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 là tổng hợp sức mạnh của toàn dân tộc, thắng lợi đó là mẫu mực của tinh thần “cả nước đồng lòng”, của sức mạnh toàn dân, của những hoàng đế anh hùng như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, của những quý tộc anh hùng như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư…, của những bình dân anh hùng như Phạm Ngũ Lão, Dã Tượng, Yết Kiêu… và của đông đảo những người lính anh hùng khắc trên cánh tay hai chữ “Sát Thát”. Đặc biệt là thiên tài quân sự Trần Quốc Tuấn, với việc áp dụng chiến thuật dùng cọc nhọn đâm thuyền địch, Trần Quốc Tuấn đã biết kết hợp linh hoạt hai yếu tố: Thứ nhất: phải dụ địch đến đúng bãi cọc diễn ra trận chiến khi thủy triều đang lên cao, bãi cọc chưa bị phát lộ; Thứ hai: phải nắm vững quy luật thủy triều theo từng giờ và tính toán đúng thời điểm để khi quân địch tới bãi cọc rồi, thủy triều mới rút, có như vậy thuyền địch mới bị mắc cạn và bị cọc đâm thủng. Sự kết hợp kì diệu hai yếu tố đó đã tạo nên một chiến công lừng lẫy. Điều đó cho thấy, Trần Quốc Tuấn đã rất thành công bởi kế sách độc đáo cũng như sáng tạo trong việc lợi dụng địa hình, địa thế tự nhiên, tính toán chính xác sự lên xuống của con nước. Chiến thắng Bạch Đằng (năm 1288) là dấu son chói lọi trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Một số cọc đã được lấy lên và những cọc còn lại được bảo tồn trong hố trưng bày tại chỗ. Tuy nhiên, những cọc Bạch Đằng ở di tích này đa số phần đầu cọc nhô lên đã bị mục gẫy, phần thân cọc vẫn cắm dưới bùn đất nhưng đây lại là chứng tích vô cùng quan trọng của trận chiến lịch sử trên dòng sông Bạch Đằng năm 1288. Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của Khu di tích, ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định xếp hạng Khu di tích lịch sử Chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 là Di tích Quốc gia đặc biệt. Những chiếc cọc Bạch Đằng trưng bày ở Bảo tàng tỉnh Quảng Ninh là hiện vật quý hiếm còn lại đến ngày nay, là chứng tích về truyền thống hào hùng chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Trận địa cọc không chỉ như một loại vũ khí độc đáo trong trận chiến Bạch Đằng năm 1288 mà còn thể hiện phương pháp tác chiến độc đáo, sự sáng tạo tuyệt vời trong nghệ thuật quân sự của quân dân Đại Việt dưới thời Trần. Bức tranh trận chiến Bạch Đằng, năm 1288. Cọc gỗ, dùng trong trận chiến trận chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông trên sông Bạch Đằng, năm 1288. Nhóm 3. Bãi cọc Bach Đằng Hiện nay có ít nhất ba cụm/bãi cọc đã được phát hiện ở vùng Đông Bắc Việt Nam thuộc tỉnh Quảng Ninh và 2 bãi cọc ở Hải Phòng. Bãi cọc đầu tiên được phát hiện vào năm 1953 và bãi cọc gần đây nhất là vào tháng 2 năm 2020, ở Hải Phòng. Các bãi cọc ở thị xã Quảng Yên Cọc gỗ được tìm thấy ở bãi cọc Yên Giang thuộc thị xã Quảng Yên, được mang đến lưu giữ tại Khu di tích Tràng Kênh. Có 3 bãi cọc ở thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh đã được phát hiện, bao gồm: Bãi cọc đầm Nhử, Yên Giang (phát hiện từ năm 1953 đến năm 1958), Bãi cọc đồng Vạn Muối (phát hiện năm 2005) và Bãi cọc đồng Má Ngựa (phát hiện năm 2009) Bãi cọc Yên Giang (bãi cọc đầm Nhử) Tọa độ: 20°56′07″B 106°47′01″Đ, diện tích khoảng 3.000m2 Bãi cọc này nằm trong một đầm nước giáp đê sông Chanh, gần ngã ba với sông Đá Bạch có tên là đầm Nhử nên đôi khi bãi cọc cũng được gọi là "bãi cọc đầm Nhử", nằm ở phường Yên Giang, thị xã Quảng Yên, Quảng Ninh. Bãi cọc này có diện tích khoảng 120 m². Hiện nay đã có khoảng 300 cọc đã được tìm thấy tại đây và đang nằm trong khu vực được bảo vệ rộng 7,5 ha. Khoảng năm 1953–1954, bãi cọc này dần được biết đến khi người dân địa phương ở xã Yên Giang phát hiện vài cọc gỗ lộ ra trên mặt đất ở một đầm nước nhỏ, cách ngã ba sông Chanh với sông Bạch Đằng khoảng 400 mét về phía đông. Vị trí này nằm cách trung tâm thị xã Quảng Yên 2 km về phía tây. Lúc đó, người dân do thấy có cọc gỗ lim còn tốt nên đã đào và đem về nhà sử dụng. Đã có khoảng 200 cọc được nhổ lên trong 50 hố đào. Câu chuyện sau đó dần được báo cáo lên cấp trên và Nhà nước bắt đầu quan tâm. Ngày 26 tháng 11 năm 1958, Vụ Bảo tồn bảo tàng với các chuyên gia như Hoàng Minh Giám, Đào Duy Anh, Nguyễn Lân, đã đến đây ghi nhận thông tin từ người địa phương và tiến hành khảo sát, khai quật.[12] Sau đó tiếp tục được tiến hành nhiều cuộc khảo sát và khai quật nữa vào các năm 1969, 1976, 1984 và 1988. Các cuộc nghiên cứu cho thấy các cọc ở đây đa phần được làm từ gỗ lim, thân dài từ 2,6 đến 2,8 mét và có đường kính khoảng 20 đến 30 cm. Phần đầu cọc được đẽo nhọn để cắm xuống đáy sông dài từ 0,5 đến 1 mét và khoảng cách trung bình giữa các cọc khoảng 1 mét.[13][14] Gần bãi cọc có một tấm bia được dựng lên để đánh dấu và ghi nhận khu di tích.[13] Bãi cọc đồng Vạn Muối Tọa độ: 20°55′29″B 106°47′31″Đ (không chính xác) diện tích khoảng 6.000m2 Cách bãi cọc ở Yên Giang vài kilomet là bãi cọc đồng Vạn Muối, nằm gần cửa sông Rút, phường Nam Hòa, được người dân thị xã Quảng Yên phát hiện trong khi đang đào ao. Sau lần kiểm tra vào năm 2005, các chuyên gia đã báo cáo rằng những cọc gỗ ở đây được cắm dựng đứng và một số khác cắm xiên trong vùng đồng Vạn Muối. Các cây cọc được làm từ nhiều loại gỗ, bao gồm cả thân và cành cây. Đường kính mỗi cọc khoảng từ 10 đến 30 cm, phần mũi cọc được vạt nhọn đầu, chiều dài cọc khoảng 1.5 m đến 3.0 m. Tuy nhiên, mật độ cọc ở khu vực rất dày đặc, khoảng cách chủ yếu giữa các cọc khoảng 40 đến 60 cm, một số cọc cách nhau rất gần, khoảng 10 đến 30 cm. Bãi cọc này được khai quật lần đầu vào năm 2009 và sau đó một năm thêm một cuộc khai quật lần hai. Bãi cọc có chiều rộng 100 m và chiều dài 300 m, trải thành dải như một lớp thành lũy. Bãi cọc đồng Má Ngựa Diện tích khoảng 2.100m2), cũng nằm trong phường Nam Hòa của thị xã Quảng Yên, một bãi cọc khác được gọi là bãi cọc đồng Má Ngựa đã được tiến hành khai quật trong năm 2010. Đây là bãi cọc thứ ba được tìm thấy nằm trong cụm các bãi cọc trên hệ sông Bạch Đằng xưa ở ven bờ cửa sông Kênh, nằm cách bãi cọc đồng Vạn Muối về hướng nam khoảng một kilomet.[17] Các bãi cọc này được các chuyên gia cho rằng liên quan đến trận kháng chiến trên sông Bạch Đằng vào năm 1288 do Trần Hưng Đạo lãnh đạo chống quân Nguyên Mông. Các bãi cọc ở Hải Phòng Bãi cọc Cao Quỳ Tọa độ: 21°00′48″B 106°39′19″Đ Bãi cọc Cao Quỳ vào tháng 12 năm 2019. Bãi cọc được phát hiện lần đầu vào ngày 1 tháng 10 năm 2019 bởi một người dân đang canh tác. Đến cuối tháng 11 và tháng 12 năm 2019, các chuyên gia của Viện Khảo cổ học và Bảo tàng Hải Phòng đã tiến hành khai quật một bãi cọc trên cánh đồng Cao Quỳ, thuộc xã Liên Khê, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng.[19][20] Tại địa điểm này, người ta đã tìm thấy 27 chiếc cọc gỗ ở 3 hố đào trong diện tích 950 m².[21] Các cọc này đo được có đường kính khoảng từ 20 đến 56 cm, được chôn cách nhau 5 đến 7 mét.[19] Kết quả xác định niên đại bằng cacbon-14 cho thấy hai trong số các cọc gỗ có niên đạikhoảng 1270 đến 1430 năm. Bước đầu các chuyên gia của Viện Khảo cổ học dự đoán, bãi cọc ở cánh đồng Cao Quỳ có thể là một phần của trận Bạch Đằng năm 1288, để chặn đường quân Nguyên Mông không tiến vào khu vực sông Giá và trung tâm chỉ huy của Trần Hưng Đạo, buộc quân địch phải đi theo sông Đá Bạc để tiến vào sông Bạch Đằng. Theo các nhà nghiên cứu, bãi cọc gỗ mới được phát hiện này có thể làm thay đổi những hiểu biết về Trận Bạch Đằng năm 1288 của nhà Trần trước quân Nguyên Mông. Đầu tháng 1 năm 2020, các cọc gỗ ở bãi cọc Cao Quỳ đã được san lấp để bảo quản. Trước đó, bãi cọc đã được quét ba chiều, dựng lại bình đồ dành cho các nghiên cứu về sau.[26] Bãi cọc Đầm Thượng Tọa độ: 21°01′06″B 106°36′38″Đ Ngày 9 tháng 2 năm 2020, 13 cọc gỗ được phát hiện tại khu Đầm Thượng, thôn 11, xã Lại Xuân, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Các cọc này nằm trong một ao cá và được tìm thấy trong quá trình nuôi trồng của người dân địa phương. Một số cọc được cho là đã bị hư hại và nghi ngờ liên quan đến các sự kiện Bạch Đằng. Viện Khảo cổ học dự kiến sẽ tiến hành khai quật khu vực rộng khoảng 400 m² tại đây để phục vụ nghiên cứu. Công việc khai quật bãi cọc này đang được diễn ra, bắt đầu từ ngày 18 tháng 2 và dự kiến sẽ kết thúc vào ngày 31 tháng 3 năm 2020. Tính đến ngày 24 tháng 2, đã có thêm 2 cọc gỗ mới được phát hiện, nâng tổng số cọc lên 15 và 50 trên 400 m² của khu bãi cọc đã được khai quật.
Bình luận - Đánh giá
Chưa có bình luận nào
Bạn cần đăng nhập để gửi bình luận.

